Đừng đánh lạc mục tiêu, đừng đánh tráo chủ đề




Mặc Giao
Bài này không có mục đích tranh cãi hơn thua và gây bất hoà giữa đồng bào Phật tử và đồng bào Công giáo. Tôi luôn luôn chủ trương hoà đồng dân tộc, vì trước khi được rửa tội dể có đức tin Công giáo, tôi được sinh ra là một người Việt Nam. Vì thấy có một số người đi vào con đường tranh luận nguy hiểm, tỏ mờ xuất hiện âm mưu chia rẽ và gây hận thù giữa hai khối tôn giáo lớn nhất Việt Nam, có thể gây nguy hại khôn lường cho dân tộc, chẳng những trong cuộc đấu tranh chống độc tài hiện tại mà còn cả trong công cuộc xây dựng lại đất nước mai sau, tôi buộc lòng phải phát biểu đôi điều.

Trong khi hàng ngàn giáo dân Hà Nội liên tiếp tụ tập trước trụ sở toà Khâm sứ Toà thánh cũ, từ cuối tháng 12-2007, để cầu nguyện cho việc nhà cầm quyền cộng sản trả lại khu nhà đất này, trong khi đồng bào trong nước và ngoài nước nhìn về cuộc đấu tranh ôn hoà, bất bạo động này với niềm ưu tư và hy vọng, nôn nóng chờ đợi kết quả để xem cộng sản sẽ giải quyết ra sao, để từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm và tiền lệ cho cuộc đấu tranh đòi công lý, không phải chỉ cho Công Giáo, mà còn cho cả các tôn giáo khác, nếu không nói là cho toàn dân, thì nhóm Giao Điểm ở Mỹ, khét tiếng thù hận Công giáo, đã tung ra những luận điệu kết án Công giáo đã triệt hạ và cướp đất Chùa Báo Thiên để xây Nhà thờ Thánh Giuse, khu Nhà chung và Toà Khâm sứ ở Hà Nội. Nhóm này cho rằng Phật giáo mới là chủ nhân của khu đất tranh chấp và kêu gọi Phật tử đứng lên đòi lại. Để đánh động tâm lý của Phật tử, có ông còn chơi trò ghép hình gian, lấy tấm hình đẹp đẽ của một chùa khác, Chùa Báo Ân (tức chùa Liên Trì), ghép bên cạnh hình Nhà thờ Lớn Hà Nội với ngầm ý là ngôi chùa trong hình chính là chùa Báo Thiên, đã bị đập phá để xây nhà thờ. Đòn kích động của nhóm Giao Điểm không nhiều thì ít đã gây tác hại cho tình đoàn kết dân tộc, thí dụ website Huongtran (hatnangusa@yahoo.com) vẫn hàng ngày phổ biến tin tức và bài vở bênh vực Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ngày 21-01-2008 đã đăng một số lời kêu gọi và kết án có nội dung rất “cạn tầu ráo máng”, khởi đầu bằng một khẩu hiệu in chữ lớn đậm: “Bà con Phật Tử hãy đến nơi gọi là “toà khâm sứ” đòi bọn Việt gian Catô trả lại chùa Báo Thiên cho PGVN”. Đọc khẩu hiệu kích động này, người ta có thể hiểu đó là một lời kêu gọi thánh chiến, báo trước một cuộc chiến tranh tôn giáo sắp xảy ra. Đó sẽ là một cuộc chiến tranh giữa Phật giáo và Công giáo, không phải là cuộc tranh đấu giữa các tôn giáo và chế độ độc tài vô thần. Tôi tin rằng các vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và đa số đồng bào Phật tử không mong muốn có một cuộc chiến tranh như vậy, nhất là khi các vị và các Phật tử chân chính đang cần sự hỗ trợ của toàn dân để đấu tranh cho sự sống còn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước mưu chước triệt tiêu Giáo hội của nhà cầm quyền hiện nay.

Người ta lại càng có lý do nghi ngờ việc đánh lạc mục tiêu cuộc đấu tranh của giáo dân khi ông Lê Quang Vịnh, nguyên Trưởng ban Tôn giáo nhà nước, người đã từng nhiều năm đứng đầu một cơ quan chuyên lo triệt hạ, kiểm soát, cấm đoán, kềm kẹp, gây chia rẽ và lợi dụng các tôn giáo, đứng ra đỡ đòn cho nhà nước bằng việc gây mâu thuẫn giữa Phật giáo và Công giáo với hy vọng làm cho hai tôn giáo này đánh đấm lẫn nhau thay vì đánh chế độ độc tài. “Đao phủ thủ” của các tôn giáo Lê Quang Vịnh cho phổ biến ngày 03-02-2008 một bài ngắn có tựa đề “Lịch sử Phố Nhà Chung”, kể lại việc ông được vị sư trụ trì chùa Lý Quốc Sư “đưa cho đọc những tư liệu quý giá mà nhà chùa vẫn còn lưu giữ được về khu đất bên cạnh chùa. Thật bất ngờ cho tôi khi đọc thấy những chứng tích rằng toàn bộ khu đất rộng 300 mét vuông ấy, ngày nay gọi là Phố Nhà Chung (Công giáo), ngày xưa là một ngôi chùa (Phật giáo) cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất nước ta. Chùa có tên gọi tắt là Báo Thiên Tự, gọi đầy đủ là là Sùng Khánh Báo Thiên Tự; trong sân chùa có một ngôi bảo tháp cao vời vợi (12 tầng), cao đến mức bóng tháp soi xuống mặt hồ Hoàn Kiếm. Tháp này có tên gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, gọi tắt là Báo Thiên Tháp…”. Chưa cần bàn tới tài liệu này chính xác tới đâu, chỉ nguyên việc ông Vịnh nói dóc đã đủ gây nghi ngờ về sự trung thực của ông. Trước hết, ông nói ông “đọc” những tư liệu của vị sư trụ trì. Những tư liệu này chắc chắn phải được viết bằng chữ Nho, lại là chữ Nho cổ. Một giáo sư Hán học của trường đại học văn khoa chưa chắc đã đọc thông liền tại chỗ, có khi còn phải lập cả một uỷ ban để nghiên cứu và dịch thuật mới có thể tìm hiểu tận tường. Chữ nghĩa của ông cán bộ Lê Quang Vịnh được bao nhiêu mà ông thoáng đọc đã hiểu hết mọi chi tiết? Thứ hai, ông nói tháp Báo Thiên cao đến mức bóng tháp soi xuống mặt nước hồ Hoàn Kiếm. Ai cũng biết nhà thờ chánh toà không nằm gần bờ hồ Hoàn Kiếm. Nếu đúng Tháp Báo Thiên nằm ở địa điểm Nhà thờ Lớn ngày nay có thể soi bóng trên mặt hồ thì tháp phải cao cả cây số, còn cao hơn toà nhà chọc trời cao nhất thế giới đang được xây ở Dubai, Trung Đông. Sự thật, theo tài liệu sưu tầm của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, tháp chỉ cao 20 trượng, tức 80 mét. Phét lác như thế mà được Giaodiemonline.com của các ông “trí thức” vồ lấy đăng ngày 13-02-2008, cùng ngày phổ biến bài này trên website báo Đại Đoàn Kết, cơ quan trung ương của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, nói về việc ông cộng sản gộc nhẩy vào cuộc để chỉ đạo một cách vụng về không có nghĩa là phủ nhận các sự kiện lịch sử.


Cuộc thảo luận trên diễn đàn talawas

Trên diễn đàn điện tử talawas ngày 19-01-2008, ông Lê Tuấn Huy đã có bài “
Xin hãy dừng lại trước khi quá muộn”, bàn về vấn đề một số người muốn kích động việc tranh chấp đất đai giữa Phật giáo và Công giáo. Tác giả tự xác nhận là người vô thần 100%, nhưng “sống bằng lẽ phải và lương tâm, không hề thấy đúng nói sai hay thấy sai nói đúng”. Ông giật mình lo ngại trước nguy cơ tranh chấp giữa hai tôn giáo chỉ vì chuyện đất đai. Ông nhìn thấy có sự lẫn lộn giữa lịch sử và hiện thực. Theo ông, khi một trong các bên chủ thể của tranh chấp không còn tồn tại, hoặc khi đã qua một thời gian đủ lâu, lúc mà các chủ thể trực tiếp đã biến thành các chủ thể hậu duệ, thì xem như lịch sử đã được xác lập. Không ai thay đổi được lịch sử và không ai có thể giải quyết được mọi hậu quả của lịch sử. Trong khi đó hiện thực là cái ta phải đối mặt và có thể thay đổi. Về lịch sử, chính quyền thực dân Pháp, chủ thể phát đất cho Công giáo xây nhà thờ và các cơ sở tôn giáo khác, đã trở thành cát bụi từ lâu rồi. Những người bị lấy đất cũng không còn để có thể khiếu nại. Không thể viện quyền thừa kế vì khi đó chỉ có các cá nhân tu sĩ và Phật tử, chưa có Giáo hội Phật giáo, nên chưa có tập đoàn có tư cách pháp nhân. Vả lại Phật giáo và Công giáo vẫn sống hài hoà từ đó tới nay, chẳng ai thắc mắc, chẳng ai đòi gì của ai, tại sao bây giờ lại moi ra vấn đề đã đi vào lịch sử? Về hiện thực, ngược lại, chính quyền cộng sản lấy nhà đất Toà Khâm sứ năm 1959 vẫn còn đó, những người thừa kế quyền sở hữu vẫn còn đó với giấy tờ đầy đủ, nên việc khiếu nại có cơ sở. Vì vậy, ông e ngại việc khích động Phật giáo đòi đất chỉ là cớ chống Công giáo. Ông kêu gọi những nhóm người thuộc “tôn giáo” nào đó hãy ý thức “lợi ích dân tộc là lợi ích của toàn thể khối nhân dân, của tất cả các tôn giáo và người không theo đạo sống trên mảnh đất hình chữ S này, không phải của riêng ai, riêng một đảng phái hay tôn giáo nào. Vì lợi ích riêng mà bất chấp viễn cảnh được giả định của một cuộc xung đột tôn giáo và xã hội, vốn sẽ đi kèm – không tránh khỏi trong thời đại ngày nay – với giải pháp khắc chế lẫn nhau giữa các tôn giáo, sẽ dẫn đến một đại họa, và là một tội ác! Xin hãy dừng lại trước khi quá muộn!”

Chỉ bốn ngày sau khi bài của ông Lê Tuấn Huy xuất hiện, ông Nguyễn Hữu Liêm nhảy vào cuộc với bài “
Một lịch sử đã muộn” (Góp ý với Lê Tuấn Huy về vấn đề Phật giáo và Công giáo ở Việt Nam), được đưa lên diễn đàn talawas ngày 23-01-2008. Thật ra ông Nguyễn Hữu Liêm không có góp ý trực tiếp với vấn đề và những luận điểm ông Lê Tuấn Huy nêu lên. Ông chỉ mượn cớ để đổ thêm dầu vào lửa bằng lối nói cố làm ra vẻ trí thức và hoà nhã. Trước hết, ông viện dẫn Ludwig Feuerbach đả kích đạo Công giáo rồi lại dùng Barth để đả kích Feuerbach đã lún sâu vào tín lý Công Giáo khi phủ định đạo này. Kế đến ông cho rằng những “người trí thức Phật Giáo Việt Nam đã nảy sinh một tinh thần hận thù Công Giáo như là một năng thức phủ định đối với một bản sắc văn hoá mới, ngoại lai trong ý chí bảo tồn truyền thống của mình”. Liền đó ông lại chê các trí thức Phật giáo Việt Nam chưa có, hay không có khả năng tạo nên cơ hội để biến niềm căm phẫn đối với Công giáo thành ra một phản biện thuần lý luận (như khi Feuerbach chuyển hoá niềm bất mãn nội tại thành ngôn từ triết học); chỉ trong hơn một thập niên qua, nhóm Giao Điểm mới có những công trình biên khảo phê phán Công giáo. Trong số những tác giả ông ca tụng và kê tên, có cả cây viết cộng sản Hoàng Văn Giàu. Ông cho rằng ông dùng chữ “hận thù” là không quá đáng vì Công giáo nhiều hay ít đã nhờ vào thực dân Pháp mà bành trướng. Đó cũng là lý do “người trí thức Phật tử Việt Nam cảm thấy họ gần gũi với người cộng sản trong bản chất phản đề và phủ định đế quốc phương Tây”.

Sau khi xử dụng trích đoạn Thánh Kinh bị ông cắt vụn và giải thích sai lạc: “Ta đến để nổi lửa trên thế gian… để mà gây chia rẽ” (Luke 12) dể chứng minh Công giáo bành trướng bằng sức mạnh chinh phục, ông chê Phật giáo ngây thơ đối với vấn đề tôn giáo và quyền lực rồi dạy các trí thức Phật tử “phải có khả năng và ý chí để nhân danh truyền thống dân tộc Việt, tạo nên một một năng lực phản đề và phủ định đối với đạo Chúa một cách có hiệu năng hiện thực”. Ngoài việc kết án Công giáo xây Nhà thờ Thánh Joseph trên nền Tháp Báo Thiên, ông Liêm còn tạo dựng thêm tội Vương cung Thánh đường La Vang được xây trên nền Chùa Lá Vàng ở Quảng Trị. Ông cho rằng “Đây là, và phải là một cáo trạng nặng nề đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam” “ít nhất là trên bình diện đạo đức lịch sử của người Công giáo, khi đòi lại cơ sở của họ, Giáo hội Công giáo phải trả lời cáo trạng này”.

Cũng trên diễn đàn talawas, ngày 28-01-2008 ông Nguyễn Mai Sơn cho đăng bài “
Xin đừng bi quan bởi không có gì là quá muộn”. Bài này không có gì đặc biệt ngoài việc tác giả chỉ trích Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt là ngây thơ, có thái độ khiêu khích khi phát động cầu nguyện để đòi lại nhà đất. Lý do là Tổng giám mục Kiệt đã coi thường phản ứng của Phật giáo và xem nhẹ khả năng “đáp trả” của chính quyền. Ông viết thêm: “Điểm đáng chú ý và cũng gần như là mấu chốt của vấn đề chính là phần nhiều người Công giáo vẫn xem Vatican là “nước Mẹ”, khiến mọi người nghĩ rằng người Công giáo Việt Nam đặt lợi ích tín ngưỡng của mình lên trên lợi ích dân tộc”.

Phải ghi nhận diễn đàn talawas đã có thiện chí mở cửa cho cuộc thảo luận rộng rãi về vấn đề tranh chấp đất đai, nhờ đó nhiều người có dịp đọc được những ý kiến trái ngược, có cơ hội nhận định tâm trạng của những người viết cũng như những tính toán của nhà cầm quyền qua những ngôn từ và những ẩn ý.


Những sự kiện lịch sử và những nghi vấn

Bỏ qua những xác định khơi khơi của ông Lê Quang Vịnh, chúng ta có một số tài liệu lịch sử nói về Chùa Báo Thiên và Tháp Báo Thiên với nhiều chi tiết bổ túc cho nhau và đáng để cho người sau suy nghĩ.

Trước hết, sự hiện diện của Chùa Báo Thiên và Tháp Báo Thiên ở khu vực gần Nhà thờ Lớn hiện nay đã được Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ (1768–1839) và Nguyễn Án (1770–1815) xác nhận. Tháp được xây trước (1056), chùa được xây sau một năm (1057), đều do lệnh của vua Lý Thái Tông (1054–1072).

Về sự sụp đổ của Tháp Báo Thiên, theo Đại Việt sử ký toàn thư Việt sử lược, những tầng trên của tháp được ghép bằng đồng nên dễ bị sét đánh. Vì thế tháp đã sụp đổ và được sửa lại nhiều lần. Lần đổ cuối cùng, theo Tang thương ngẫu lục, “khoảng năm Tuyên Đức nhà Minh, đức Thái tổ Hoàng đế tiên triều (Lê Lợi) tiến binh vây Đông Đô, viên quan giữ thành là Thành Sơn hầu Vương Thông phá huỷ cây tháp (lấy vật liệu) chế ra súng đồng để giữ thành (1414). Tiên triều nhân nền cũ, đắp các núi đất phủ lên trên” (talawas 04-02-2008).

Theo tài liệu của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trong bài Nghĩ về Thăng Long Hà Nội (Nhà xuất bản Trẻ, Tp HCM 2001, tr. 100–105) thì từ sau khi Tháp Báo Thiên bị tướng nhà Minh là Vương Thông triệt hạ để lấy đồng, Chùa Báo Thiên cũng bị bỏ hoang. Triều Lê cho đắp núi đất phủ lên nền cũ. Cuối thế kỷ 18, nơi sân chùa thì họp chợ gọi là Chợ Báo Thiên. Núi dùng làm nơi xử chém những tội nhân bị kết án tử hình. Năm 1791, người ta đào lấy những gạch đá nơi nền tháp để tu bổ thành Thăng Long.

Như vậy sử liệu đã ghi rõ rằng Tháp Báo Thiên bị quân Minh phá sập dể lấy đồng khi Lê Lợi bao vây thành Thăng Long, Chùa Báo Thiên bị bỏ hoang sau đó, dân chúng họp chợ trên sân chùa, núi đất được dùng làm pháp trường, gạch đá được moi lên để tu bổ thành. Vậy mà ông Nguyễn Quốc Dũng hò hét trên Giaodiemonline (18-01-2008) là “Thực dân Pháp, dưới sự tiếp tay của tín hữu Ki-tô giáo đã tịch thu đất, cho phá tháp và chùa để xây dựng Nhà thờ Thánh Joseph, tức Nhà thờ Lớn Hà Nội ngày nay”. Phá tháp, phá chùa là tội lớn lắm. Nếu tin lời ông Nguyễn Quốc Dũng và những người thích vu khống và gây thù hận như ông thì những người Công giáo Việt Nam phải là những tội đồ số một của dân tộc. Ông Nguyễn Hữu Liêm nói rằng trí thức Phật tử cảm thấy gần gũi với người cộng sản, chẳng lẽ các ông lại muốn hô hào Phật tử hãy mau tiếp tay với cộng sản để cùng trừng trị đám “tội đồ số một” này!?

Chưa xong vụ Báo Thiên, ông Nguyễn Hữu Liêm lại lôi ra vụ Chùa Lá Vàng ở Quảng Trị: “Chùa Lá Vàng trở thành Thánh địa La Vang, từ một ngôi chùa “không tên” trở nên Vương cung Thánh đường”. Khác với trường hợp Tháp và Chùa Báo Thiên, không có một tài liệu lịch sử nào chứng minh có một Chùa Lá Vàng ở địa điểm Nhà thờ La Vang hiện nay. Có chăng là một am nhỏ đã được dân địa phương nhường lại cho đồng bào Công giáo khi biết Đức Mẹ đã hiện ra gần đó. Ông Nguyễn Lý Tưởng, người gốc Quảng Trị, đã viết về khu đất này như sau: “La Vang ngày xưa là một xóm đạo thuộc giáo xứ Trí Bưu (gọi là xóm Lá Vằng)… Toàn vùng La Vang ngày xưa là đất thuộc làng Thạch Hãn (chỉ trừ xóm Lá Vằng tức La Vang bây giờ là do giáo dân Trí Bưu vào rừng làm củi đã khai phá ra đất đó, nên La Vang thuộc giáo xứ Trí Bưu). Đọc lịch sử Đức Mẹ La Vang chúng ta biết ba làng Thạch Hãn, Ba Trừ và Cổ Thành, sau khi tìm hiểu về chuyện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang vào cuối thời Tây Sơn, đã đồng thuận trao di tích Cây Đa (nơi dân đi rừng đã làm một cái am để thờ một Bà Hiển Linh nào đó mà họ không biết tên) lại cho người bên đạo” (Nguyễn Lý Tưởng 05-12-2005, đăng lại trên http:/ttntt.free.fr 25-01-2008). Như vậy, làm gì có chuyện giáo dân phá “Chùa Lá Vàng” để xây Vương cung Thánh đường lên đó.


Đánh lạc mục tiêu

Trong khi cuộc đấu tranh bằng cầu nguyện của giáo dân Hà Nội với mục đích đòi hỏi nhà nước cộng sản trả lại nhà và đất của Giáo hội Công giáo để sử dụng vào những việc công ích, thay vì để mở tiệm phở, sàn nhảy, nơi bán và giữ xe gắn máy, thì một số người nhận mình là trí thức Phật tử lại phát động chiến dịch khơi lại hận thù với Công giáo, xuyên tạc nên chuyện Công giáo phá chùa, chiếm đất để xây nhà thờ. Nếu Lê Quang Vịnh làm điều này, chúng ta không có gì thắc mắc vì đó là bổn phận của ông ta trong việc “ăn cây nào rào cây nấy”. Biết đâu ông chẳng được lệnh từ trên phải thi hành mánh khoé gỡ rối cho Đảng và Nhà nước bằng cách xúi cho Phật giáo và Công giáo đánh lẫn nhau thay vì đánh cộng sản. Có bao nhiêu người rơi vào âm mưu này vì vô tình? Có bao nhiêu người tiếp tay với nhà nước cộng sản thực hiện âm mưu này một cách cố ý? Đọc những lời lẽ của một số người tự nhận là Phật tử, chúng ta chỉ toàn thấy hận thù, tố cáo, xuyên tạc, mạ lỵ, lập cáo trạng để hỏi tội Công giáo, không hề thấy một chút từ bi hỷ xả nào của tinh thần Phật giáo. Họ còn chê những trí thức Phật tử khác là dốt, không biết lý luận rốt ráo và cao cấp khi chống đối Công giáo, chê đa số Phật tử thụ động và hiền lành, không chịu nghe lời xách động của họ để nổi lên hỏi tội Công giáo.

Ai cũng biết vụ giáo dân Hà Nội đòi nhà đất là một vấn đề rất khó giải quyết cho nhà cầm quyền cộng sản. Không trả thì những cuộc đấu tranh, dù bất bạo động, vẫn dai dẳng tiếp diễn, có thể lôi kéo người tham gia càng ngày càng đông, không phải chỉ riêng giáo dân, mà còn dân chúng thuộc các thành phần khác, không phải chỉ đòi nhà đất, mà còn đòi những thứ khác. Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay rất sợ những cuộc tụ tập đông người vì chúng có thể biến thành những cuộc biểu tình chống Nhà nước, sẽ khơi ngòi bất mãn bùng nổ khắp nơi. Khi đó liệu chính quyền có dám và có khả năng đàn áp các cuộc biểu tình này không? Nếu có máu đổ thì máu sẽ gọi máu, dân càng thêm căm phẫn và càng đấu tranh quyết liệt hơn. Nếu đàn áp xảy ra, quốc tế có nhắm mắt làm ngơ hay sẽ áp dụng những biện pháp chế tài, cụ thể là “đóng băng” (freeze) tài sản của các công ty và của các ông bà lớn gửi tại các ngân hàng nước ngoài? Việc này đã có tiền lệ. Mới nhất là vụ đàn áp tại Miến Điện. Tại quốc gia này, đàn áp có thành công nhưng chế độ bị sỉ vả, bị chế tài, bị đóng băng trương mục, bị Liên hiệp quốc bắt phải nói chuyện với đối lập, thay đổi hiến pháp, lập chính phủ liên minh, đi đến việc thực hiện tự do dân chủ. Vì thế, khi thấy hàng ngàn giáo dân tụ tập cầu nguyện liên tục, nhà cầm quyền đã nhức đầu tìm cách gỡ ngòi nổ. Họ đã liên lạc thẳng với Vatican để xin can thiệp giải tán các buổi cầu nguyện đông người với lời hứa hẹn sẽ giải quyết thoả đáng. Giáo dân đang chờ. Ngòi nổ được tạm quay ngược vòng cho chậm giờ nổ nhưng vẫn có thể được tái khởi động (restart) bất cứ lúc nào. Không nhượng bộ không xong. Nhưng nhượng bộ chỗ này chỗ khác sẽ đòi hỏi. Điển hình là 7000 người tụ tập tại Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà ngày lễ minh niên mồng 3 Tết. Công giáo đòi được, Phật giáo và các tôn giáo khác cũng sẽ đòi, cá nhân bị chiếm nhà chiếm đất cũng sẽ gia tăng cường độ khiếu nại. Lúc đó Nhà nước sẽ giải quyết ra sao? Cái mớ bòng bong này không có mối gỡ. Vì vậy, phải đánh lạc mục tiêu tranh đấu của giáo dân, phải có bộ phận nhập cuộc gây hận thù giữa Công giáo và Phật giáo để hai tôn giáo tấn công lẫn nhau, làm suy yếu hàng ngũ đấu tranh với nhà nước cộng sản. Chúng ta mong rằng giáo dân Công giáo và đồng bào Phật tử sẽ có ý thức cao độ về vấn đề này.


Đánh tráo chủ đề

Chủ đề của những cuộc đấu tranh bất bạo động đang diễn ra là Công giáo đòi nhà đất do nhà cầm quyền cộng sản chiếm giữ. Bỗng nhiên một đám người ngoài nhẩy vào đòi đổi chủ đề tranh đấu thành tranh chấp đất đai giữa Phật giáo và Công giáo. Trầm trọng hơn, họ còn muốn đổi chủ đề đất đai thành đề tài Công giáo quan hệ với thực dân và Công giáo phá hoại văn hoá dân tộc. Vì không có thời giờ thảo luận đến nơi đến chốn, tôi chỉ xin nhắc vài sự kiện để chúng ta cùng suy nghĩ.

1. Công giáo và thực dân

Công giáo có mặt tại Việt Nam từ năm 1533. Ba thế kỷ rưỡi sau, năm 1884, với Hoà ước Giáp Thân, Pháp mới chính thức đặt nền đô hộ tại Việt Nam. Trong khoảng thời gian dài đó, Giáo hội ít khi được yên hàn giữ đạo và mở đạo. Ngược lại toàn bị bách hại, hết bởi vua đến quan (Văn Thân). Trong 351 năm đó, có thực dân đâu mà cộng tác? Điều nghịch lý là sau 351 năm bị cấm, giết bởi chính những người cùng máu mủ với mình, Công giáo Việt Nam chỉ được hồi sinh khi ngoại bang đến cướp nước. Khi cả triều đình đều khép nép tuân lệnh thực dân, khi cả nước phải làm theo ý của những ông chủ mới, người Công giáo có thể đơn phương chống lại thực dân Pháp được không, hay phải tương kế tựu kế để sống còn? Đồng ý rằng dưới thời Pháp cai trị, có những người Công giáo làm tay sai cho chính quyền thực dân, nhưng những tay sai khét tiếng như Hoàng Cao Khải, Vi Văn Định, Tôn Thọ Tường… thuộc tôn giáo nào? Có phải ông Hồ Chí Minh cũng đã viết đơn xin học trường Bảo Hộ để mong được làm quan bản xứ cho Pháp hay không? Mặt khác, Công giáo trong thời này, nhờ điều kiện thuận lợi để phát triển, đã xây dựng được nhiều trường học, nhà thương, viện tế bần, viện mồ côi, trại cùi… phục vụ mọi người Việt Nam không phân biệt tôn giáo. Đừng nên có thiên kiến và chỉ biết kết án. Hãy xét hoàn cảnh thời bấy giờ và hãy cân nhắc những điều tốt mà Công giáo đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam.

Về cách hành xử của nhà cầm quyền bảo hộ Pháp (tạm gác việc nói về những chính sách thực dân), họ có truyền thống thiết kế thành phố với việc xây cất ưu tiên ở trung tâm sáu cơ sở chính: toà thị chính, toà án, nhà tù, nhà bưu điện, nhà hát và nhà thờ. Chúng ta thấy rất rõ cách thiết kế này tại Hà Nội và Sài Gòn. Nếu không đủ đất để xây, họ dùng biện pháp truất hữu hay phá cái cũ để xây dựng cơ sở mới. Vì lý do này, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn có thời được gọi là “Nhà thờ Nhà nước”, Nhà thờ Lớn Hà Nội được chính quyền bảo hộ Pháp cấp đất trên nền của Chùa và Tháp Báo Thiên đã bị sụp đổ và bỏ hoang. Họ không dại gì giao chùa và tháp còn đang đứng sừng sững của Phật giáo cho Công giáo phá đi để xây nhà thờ trên đó. Là người cai trị, dù là thực dân, họ cũng không muốn có sự xáo trộn xã hội. Những Chùa Một Cột, Đền Ngọc Sơn ở ngay giữa trung tâm Hà Nội, có ai dám đụng tới đâu? Giám mục Puginier được chính quyền thời đó cấp đất để xây nhà thờ và nhà chung. Ông không chiếm đất của ai. Những người thừa kế của ông có bằng khoán hợp lệ. Nay nếu ai muốn đòi đất này thì phải đi kiện chính quyền thực dân trong khi chính quyền này đã đi vào lịch sử. Giả dụ muốn trả thì trả cho ai? Cho Giáo hội Phật giáo nào? Hay để hoá giải “hận thù” thì phải đập sập luôn Nhà thờ Lớn Hà Nội và toàn khu Nhà Chung để một số người được thoả lòng? Có ai tìm được giải pháp thần diệu nào cho vấn đề này không, hay càng nói càng gây chia rẽ và hận thù giữa các thành phần dân tộc?

2. Công giáo và dân tộc

Đây là một đề tài lớn, không thể trình bầy trong một bài viết. Tôi chỉ xin góp ý về một vài điểm đã được một số tác giả nêu lên trong cuộc tranh luận mà tôi đã trích dẫn ở phần trên. Trước hết, có một số người mang định kiến sẵn với Công giáo, bất cứ cái gì của Công giáo đều xấu, từ giáo lý đến giáo chủ. Ông Nguyễn Hữu Liêm mở đầu bài viết bằng việc dẫn Karl Barth và Feuerbach để đả kích thần học Công giáo, gọi tín đồ Công giáo là những cá thể “nửa thú vật, nửa thiên thần”, cần phải được giáo dục để trở về “làm người, toàn diện con người”. Đã có triết gia định nghĩa con người là nửa thánh nửa quỷ. Nay ông Liêm mượn lời của Barth để chửi đồng loại là nửa vật nửa thiên thần, vậy ông là gì? chắc không phải là nửa thiên thần nửa thánh? Ông lại xuyên tạc Thánh Kinh khi dẫn lời Chúa Giêsu nói: “Ta đến là để nổi lửa trên thế gian… để mà gây chia rẽ” để chứng minh rằng Công giáo truyền đạo bằng bạo lực. Ông bẻ vụn hai câu 49 và 51, đoạn 12 của Phúc Âm Luca để làm sai ý và dịch sai nghĩa của câu nói. Bản tiếng Anh của Thánh Kinh The Holy Bible, New International Version (Michigan 1984) viết : “I have come to bring fire on the earth, and how I wish it kindled… Do you think I came to bring peace on earth? No, I tell you, but division”. Bản dịch Tân Ước của Toà Tổng giám mục Sài Gòn (1997) như sau: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên… Anh em tưởng rằng Thầy đến để đem hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Lối nói của người Do Thái vào thời Chúa Giêsu hay dùng những ẩn dụ, những hình ảnh. Câu này không có nghĩa là Ngài đem lửa đến để gây chiến tranh, để đốt thế gian, mà là đem sự thật, áng sáng, hơi ấm và sự cứu độ cho nhân loại. Vì thế mới mong lửa bùng lên. Tôi cũng đã nghe nhiều lần Phật giáo ca tụng “lửa từ bi”. Chắc chắn lửa này cũng không phải là lửa gây chiến tranh. Ở câu sau, Ngài nói Ngài đem chia rẽ đến trần gian chứ không phải đến để chia rẽ trần gian. Đó là một lời tiên tri, vì những ai theo Ngài sẽ bị ghét bỏ, bị người ta lăng nhục và nhiều khi bị chém giết. Nhân loại sẽ ganh ghét và chia rẽ vì sự có mặt của Ngài và của môn đệ Ngài. Điều này đã xảy ra đúng như vậy. Bằng chứng là những người Công giáo ở thế kỷ 21 vẫn còn bị những người như ông Liêm lăng mạ. Mong ông “giáo sư” hãy chịu khó nghiên cứu để hiểu biết thêm một chút. Nếu đã hiểu rồi, xin ông hãy giữ lương thiện trí thức một chút.

Còn việc ông Nguyễn Mai Sơn cho rằng phần nhiều người Công giáo vẫn xem Vatican là “nước mẹ” thì đó là một sự hiểu lầm to lớn. Người Công giáo Việt Nam chỉ liên hệ với Vatican về tôn giáo mà thôi. Vả lại, mỗi một giáo phận, chưa nói tới Giáo hội Công giáo cả nước, được coi như một giáo hội địa phương hoàn toàn độc lập, chỉ liên hệ với Vatican về tín lý và kỷ luật nội bộ của Giáo hội. Người Công giáo Việt Nam là công dân Việt Nam toàn phần (không phải công dân hạng hai), tôn trọng luật lệ Việt Nam, xả thân bảo vệ tổ quốc Việt Nam, không bảo vệ nước Vatican. Họ chỉ bảo vệ đức tin. Vì vậy đừng sợ người Công giáo đặt lợi ích tín ngưỡng của mình trên lợi ích dân tộc. Đòi nhà đất bị chiếm một cách bất công có vi phạm lợi ích dân tộc không?

Cũng liên quan đến vấn đề Công giáo và dân tộc, ông Nguyễn Hữu Liêm đã nói huỵch toẹt lý do thù hận Công giáo như sau: “Người trí thức Phật giáo Việt Nam đã nẩy sinh một tinh thần hận thù Công giáo như là một năng thức phủ định đối với một bản sắc văn hoá mới, ngoại lai trong ý chí bảo tồn truyền thống của mình”. Ông ca đi ca lại bài Phật giáo là dân tộc. Không ai phủ nhận ảnh hưởng lớn lao của Phật giáo trong truyền thống và văn hoá của dân tộc. Nhưng cũng không ai có thể phủ nhận những đóng góp của các tôn giáo khác trong đời sống tâm linh và văn hoá của dân tộc Việt Nam. Không kể Khổng giáo và Lão giáo đã cùng Phật Giáo tạo thành bộ ba “tam giáo đồng nguyên”, đạo thờ tổ tiên ông bà còn có gốc rễ sâu xa hơn và phổ biến trong dân gian rộng hơn bất cứ đạo nào khác tại Việt Nam. Công giáo đã có mặt tại Việt Nam gần 500 năm nay, đã trở thành một phần tinh thần và máu thịt của dân tộc Việt Nam, tại sao vẫn còn bị kỳ thị, bị coi như đối tượng hận thù? Người Việt Công giáo có khác gì những người Việt khác ngoài đức tin của họ? Họ cùng chia sẻ một nguồn gốc, một lịch sử, một tiếng nói, một văn hoá và phong tục với mọi người Việt Nam, họ cùng nổi trôi theo vận nước với toàn thể dân tộc. Hàng triệu người Công giáo cũng đã ngã xuống trong công cuộc bảo vệ quê hương. Có ai phân biệt tôn giáo của các tử sĩ? Tại sao cứ nói đến hận thù, là những tiếng không có trong giáo lý nhà Phật?

Nếu Công giáo đem lại chút gì khác cho dân tộc thì đó chính là việc giao lưu tất yếu khi các định chế chính trị, kinh tế, giáo dục, xã hội có khuynh hướng đi đến chỗ được tổ chức một cách hợp lý và tiến bộ trên toàn thế giới. Có một số người vẫn chỉ trích mô thức tổ chức này trong khi vẫn cố gắng làm theo vì trong thời buổi chúng ta đang sống, không ai có thể tiếp tục mặc áo the, đi guốc mộc, búi tó củ hành để “bảo tồn truyền thống dân tộc”. Bảo tồn truyền thống và văn hoá dân tộc mới chỉ là khía cạnh tĩnh, tiêu cực, giậm chân tại chỗ. Đời sống văn hoá còn có khía cạnh động. Chỉ nên coi cái tĩnh là cốt lõi, và phải có cái động để hội nhập với thời đại, cầu tiến bộ. Giỏi thì vẫn tiến cùng người trong khi vẫn giữ được bản chất của mình. Dở thì sẽ thành một thứ không giống ai, không cạnh tranh nổi với người, nên đòi quay về ôm lấy truyền thống dân tộc.

Ở khía cạnh đóng góp cho văn hoá Việt Nam, những người Công giáo cũng không phải là những người ngoài cuộc. Không kể chữ quốc ngữ, ai có thể phủ nhận công trình của những Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký của lịch sử cận đại, những giáo sư triết học Kim Định, Trần Thái Đỉnh, Vũ Đình Trác, giáo sư ngữ học Việt Nam Lê Văn Lý… của thời hiện đại? Nêu tên những vị này không phải để khoe khoang hay kể công. Họ là người Việt Nam, đóng góp tài ba cho dân tộc Việt Nam là chuyện tự nhiên. Nhưng vì có người muốn gạt hết mọi người Công giáo sang thành phần bị loại bỏ với tội vọng ngoại, phản bội văn hoá dân tộc, nên chúng tôi phải nhắc lại những tên tuổi này để mọi người thấy Công giáo Việt Nam có phản bội văn hoá dân tộc hay không.

Nói mãi cũng không cùng và càng gây thêm hiểu lầm. Tôi xin kết thúc bài này bằng kết luận sau đây:
  • Chúng ta có bằng chứng và lý do cho thấy nhà cầm quyền cộng sản rất bối rối trong việc giải quyết những vụ tụ tập cầu nguyện đòi nhà đất của giáo dân Hà Nội. Họ tìm cách gỡ bí bằng cách chuyển mặt trận sang địa bàn khác: biến nạn nhân đi đòi trở thành đối tượng bị đòi.

  • Một số “trí thức” Phật tử vô tình hay hữu ý nhảy vào cuộc, hành động đúng theo chiến thuật của nhà cầm quyền cộng sản. Họ còn đi xa hơn bằng việc biến cuộc tranh chấp đất đai thành cáo trạng hỏi tội người Công giáo đi theo ngoại bang, phản bội truyền thống và văn hoá dân tộc.

Đối với những người cố tình hành động theo sách lược của cộng sản, tôi không cần nói đến nữa. Họ đã có niềm tin và sự lựa chọn rất khác với tinh thần Phật giáo dù vẫn núp dưới danh nghiã Phật giáo. Nhưng đối với những người anh em Phật tử vô tình bị cuốn hút vào thế trận thiên la địa võng này, tôi xin anh em hãy tỉnh táo nhìn ra vấn đề, nhận ra đâu là đồng minh, đâu là đối phương, việc gì phải làm trước, việc gì nên làm sau. Nếu đất nước có tự do và công lý, anh em một nhà còn thiếu gì thời giờ và cơ hội để giải quyết những bất đồng quá khứ và hiện tại trong tinh thần vô úy nhưng khoan nhượng. Tiếp tục chia rẽ và hận thù sẽ làm lợi cho ai? Phật giáo vốn coi mọi sự là sắc không, là vô thường, há chi nặng lòng với những “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”, bởi như Bà huyện Thanh Quan đã cảm khái:


Lớp sóng phế hưng coi đã mỏi
Chuông hồi kim cổ lắng càng đau


(Viết từ Canada)

© 2008 talawas

Bài viết không nhất thiết là quan điểm của CLBNBTD

Nguồn: talawas

Bất thường trong việc tuyển quân nghĩa vụ quân sự đợt I – 2008




magnify

4h chiều thứ tư, ngày 27 tháng 2 năm 2008, đoàn đại biểu của chính quyền địa phương đã đến nhà của Nguyễn Tiến Trung để trao quà mừng tân binh chuẩn bị lên đường nhập ngũ. Theo như thông báo của chính quyền địa phương, Tiến Trung sẽ là tân binh của Trung đoàn Gia Định, đóng quân tại Hóc Môn.


chính quyền địa phương đến trao quà mừng tân binh Nguyễn Tiến Trung ngày thứ tư 27/02/2008

Nguyễn Tiến Trung đã có « Lệnh gọi nhập ngũ » và ngày nhập ngũ sẽ là ngày thứ tư, 5/3/2008. Được biết, Tiến Trung đã xin nghỉ việc tại công ty Rhodia (ở Diamond Plaza), đồng thời phải bỏ học khóa học Cử nhân Quản trị kinh doanh (Bachelor of Business Administration) trong chương trình liên kết đào tạo giữa trường đại học Hoa Sen và Học viện kinh doanh UBI (United Business Institute), vương quốc Bỉ để chuẩn bị nhập ngũ.

Ngày hôm sau, tức hôm nay, thứ năm 28/02/2008, chính quyền địa phương lại "viết sẵn" sơ yếu lý lịch cho Tiến Trung và đưa đến nhà để Tiến Trung kí tên.

Dù đã nhận được lệnh nhập ngũ, nhưng điều bất thường là đơn vị bộ đội nhận quân chưa hề nhận được sơ yếu lý lịch của Nguyễn Tiến Trung, dù Nguyễn Tiến Trung đã ghi lý lịch rất kỹ trong những lần thăm viếng trước của chính quyền địa phương đến gia đình. Đặc biệt, trong mọi lý lịch đã khai, Tiến Trung đều ghi rõ ngày vào đảng Dân Chủ Việt Nam.

Hơn thế nữa, chính quyền địa phương lại ghi hết sức mập mờ về tiểu sử của Tiến Trung và gia đình, đồng thời, đã tự động ký và đóng dấu vào lý lịch khi chưa có sự đồng ý của Tiến Trung.

Xin dẫn chứng ở đây (để xem hình lớn và rõ, các bạn click vào hình, chọn All sizes, rồi chọn Large hoặc Original)


Lý lịch nghĩa vụ quân sự sai do chính quyền địa phương khai (tờ 1/3)

Ở đây, chính quyền không hề ghi rõ nghề nghiệp của cha mẹ Tiến Trung. Hơn thế nữa, chính quyền địa phương còn ghi trình độ của Tiến Trung là 12/12, trong khi phải ghi rõ là trình độ « sau đại học, thạc sĩ khoa học máy tính ».

Nghề nghiệp của Nguyễn Tiến Trung hiện nay là kỹ sư công nghệ thông tin (trình độ đại học và sau đại học), hoàn toàn không phải là kỹ thuật viên (trình độ trung cấp, hoặc cao đẳng), như chính quyền địa phương viết.

Đây là tờ khai lại của Tiến Trung :


Tờ khai sơ yếu lý lịch lại của Nguyễn Tiến Trung (tờ 1/3)

Trong phần khai về gia đình, chính quyền địa phương đã lờ đi những đóng góp quan trọng của cha mẹ Tiến Trung cho đất nước.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là nhận xét của chính quyền cơ sở về Nguyễn Tiến Trung : « Bản thân chưa có tiền án, tiền sự gì. Có phẩm chất đạo đức tốt. Đủ điều kiện nhập ngũ. »


Lý lịch nghĩa vụ quân sự sai do chính quyền địa phương khai (tờ 2/3)

Chỉ một câu nhận xét chính thức, có đóng dấu và kí tên trên của chính quyền địa phương (gồm Trưởng công an, Chỉ huy trưởng quân sự, Chủ tịch UBND) đã đánh tan mọi nghi ngờ, thắc mắc của những người chưa hiểu rõ về đảng Dân Chủ, về các bạn trong Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ. Đồng thời, cho thấy những bài báo bôi nhọ đảng Dân Chủ, Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ là hoàn toàn sai trái và vi phạm luật pháp nghiêm trọng (tội vu khống, phỉ báng người khác; tự động kết tội người khác khi chưa có phán quyết của tòa).

Tiến Trung đã viết lại tờ khai như sau :


Tờ khai sơ yếu lý lịch lại của Nguyễn Tiến Trung (tờ 2/3)

Còn tờ khai cuối cùng của chính quyền địa phương lại càng sai sót nghiêm trọng. Gia đình Nguyễn Tiến Trung chưa hề có cán bộ thâm nhập của đơn vị nhận quân đến tìm hiểu.


Lý lịch nghĩa vụ quân sự sai do chính quyền địa phương khai (tờ 3/3)

Trên nguyên tắc, mọi cuộc tìm hiểu của cán bộ thâm nhập không được phép có chính quyền địa phương đi cùng. Tuy nhiên, đến giờ phút này, mọi cuộc viếng thăm, tìm hiểu về Tiến Trung và gia đình đều có chính quyền theo.

Tiến Trung và gia đình hoàn toàn không biết cán bộ thâm nhập là ai, đã đến gia đình vào lúc nào. Hơn thế nữa, khi cán bộ thâm nhập chưa hề viết gì, chúng ta đã thấy có con dấu. Đây là sự mập mờ đáng nghi ngại.

Tiến Trung đã chụp lại tờ cuối cùng (không hề viết gì) để công luận xem và đánh giá.


Tờ khai sơ yếu lý lịch lại của Nguyễn Tiến Trung (3/3)

Quan điểm của Nguyễn Tiến Trung rất rõ ràng, là một người thanh niên, một người công dân, Tiến Trung sẵn sàng lên đường nhập ngũ. Tuy nhiên, với điều kiện tất cả phải minh bạch, đơn vị bộ đội nhận quân phải biết rõ về Trung và hiểu rõ, chấp nhận Trung gia nhập vào hàng ngũ với tư cách là đảng viên đảng Dân Chủ Việt Nam, đoàn viên Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ

Không thể xem thường nguy cơ bất ổn




Giá cả tăng cao là vấn đề nóng bỏng hiện thời ở trong nước. Tỷ lệ lạm phát năm ngoái đã lên hai chữ số và chưa có xu hướng giảm đi.

Đài BBC đã có cuộc trò chuyện quanh chủ đề này với nhà kinh tế hàng đầu, tiến sỹ Lê Đăng Doanh, tại Hà Nội.

Tiến sỹ Lê Đăng Doanh (TS LĐD): Tỷ lệ lạm phát ở VN năm 2007 là 12.6%, thuộc loại cao nhất khu vực, chỉ sau Myanmar với trên 40%.

Trong tháng Giêng và tháng Hai chúng ta thấy chỉ số giá cả tiếp tục tăng và tôi nghĩ đây phải là một trong các mối lo ngại hàng đầu và ưu tiên hàng đầu cùa chính phủ VN để ổn định kinh tế vĩ mô cũng như ổn định đời sống cho người lao động, nhất là những người nghèo.

BBC: Thưa ông, nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng lạm phát hiện nay, khiến thu nhập thực tế của những người làm công ăn lương giảm rõ rệt?

TS LĐD: Điều này, theo tôi có ba nguồn gốc.

Thứ nhất là giá vàng và giá dầu thô tăng, không chỉ dẫn tới giá xăng dầu tăng mà tất cả các sản phẩm từ dầu thô như phân bón, thuốc trừ sâu, chất dẻo, nguyên liệu đồ nhựa, sợi tổng hợp vv... đều tăng. Rồi cước phí vận tải cũng tăng, tác động đến mặt bằng giá cả.

Thứ hai, các diễn biến về cung cầu trên thị trường phức tạp. Thí dụ VN hiện nay đang qua một đợt rét lịch sử, khiến cho gia súc bị chết, rau quả cũng bị mất mùa và đương nhiên giá cả tăng lên. Sự mất cân đối cung cầu này cần được xử lý kịp thời, như tìm nguồn cung cấp thay thế hoặc nhập khẩu.

Phải có các biện pháp tích cực để trợ giúp cho người nghèo.

Điểm thứ ba có liên quan tới chính sách tiền tệ. Trong năm 2007, VN đã xuất ra một lượng tiền mặt rất lớn để mua vào 9 tỷ đôla. Theo kinh tế học thì sau khi xuất ra lượng tiền lớn như vậy phải có biện pháp trung hòa, như bán trái phiếu và nâng lãi suất ngân hàng để vô hiệu hóa số tiền vừa phát hành đó. Nhưng các biện pháp này chúng ta làm quá chậm, dẫn tới chỉ số giá cả tăng cao.

Ngoài ra còn một số yếu tố khác như lượng tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để xây dựng cơ bản, qua một số vòng quay nhất định cũng sẽ ra thị trường và tác động tới tổng lượng tiền.

Một yếu tố nữa là giá bất động sản ở VN cao một cách phi lý và đang có phương hại tới môi trường đầu tư.

BBC: Giá cả tăng như vậy khiến người nghèo càng nghèo hơn. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội VN, theo ông đánh giá, đang ở mức độ thế nào?

TS LĐD: VN đã tăng được mức thu nhập bình quân đầu người, song đồng thời chỉ số chênh lệch giữa chi tiêu củ̀a người giàu và người nghèo cũng tăng lên một cách nhanh chóng.

Mức thu nhập của chúng ta hiện ở mức 835 đôla/người nhưng chênh lệch chi tiêu giàu nghèo của ta đã ngang bằng với Trung Quốc trong khi mức thu nhập của TQ là khoảng 2.000 đôla/người. Đó là điều cần chú ý.

Tuy nhiên tôi nghĩ ngay cả chỉ số đó cũng chưa phản ánh đúng chênh lệch giàu nghèo ở VN vì chúng ta không kiểm soát được nguồn thu và mức độ chi tiêu bằng tiền mặt trong xã hội còn quá lớn.

Theo tôi, tình trạng này không thể xem thường và phải có các biện pháp tích cực để trợ giúp cho người nghèo.

BBC: Khoảng cách giàu nghèo như vậy có thể gọi là bất công hay không, thưa ông?

TS LĐD: Theo tôi, đó là thể hiện một phần của sự bất công. Nhưng bất công lớn nhất trong xã hội là bất công về cơ hội được tiếp cận với giáo dục và cơ hội được nói lên tiếng nói của mình.

Nghèo không chủ yếu là nghèo tiền, mà đáng sợ là nghèo về trí tuệ, về tri thức. Người nghèo không tiếp cận được báo chí, giáo dục, khi cất tiếng nói không được lắng nghe. Theo tôi nhà nước cần chú ý để bảo đảm mọi người dân đều có cơ hội có tiếng nói như nhau.

Bất công lớn nhất trong xã hội là bất công về cơ hội được tiếp cận với giáo dục và cơ hội được nói lên tiếng nói của mình.

BBC: Thưa ông bên TQ người ta đã cảnh báo nguy cơ mất ổn định xã hội chính vì khoảng cách giàu nghèo và tình trạng bất công. Tại VN, với mô hình kinh tế nhiều nét tương đồng, liệu có nguy cơ này hay không?

TS LĐD: Nguy cơ bất ổn định xã hội hoàn toàn không thể xem thường. Bởi vì đối với những người nông dân mất đất để xây dựng và công nghiệp hóa, họ được đền bù một khoản nhất định nhưng sau đó không được tạo điều kiện để có thu nhập ổn định, công ăn việc làm.

Đó là nguy cơ lớn và trong thời gian qua đã có một số biểu hiện của nguy cơ mất ổn định.

Sắp tới đây, trong năm 2008 này, chúng ta đã thấy xuất hiện ảnh hưởng của kinh tế Hoa Kỳ tới các nền kinh tế thế giới và có thể đoán được rằng cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt. Hàng TQ, nếu không bán được sang Hoa Kỳ thì sẽ tìm cách để tràn ngập thị trường VN.

Điều đó có nghĩa, có những doanh nghiệp hôm nay còn có việc làm nhưng ba tháng nữa thì chưa dám chắc. Chúng ta phải chú ý có những biện pháp về an sinh xã hội để bảo đảm mức sống tối thiểu cho những người tạm thời không có việc làm đó.

Nguồn: BBC Việt ngữ

Đi tìm hiểu hoàn cảnh nhà anh Minh Chị Trang (bản hoàn chỉnh)




Anh Minh chị Trang thường đến Đền thờ Hồ chủ tịch ở KP4, P. Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, Tp Hồ Chí minh để nhờ các anh chị em trí thức ở đây tư vấn, giúp đỡ , chỉ dẫn đường đi nước bước để khiếu kiện đúng nơi , đúng chổ.



Cuối cùng thì tôi cũng đi đến tận nơi ở trước đây của gia đình anh Trang chị Minh để tìm hiểu hoàn cảnh của gia đình anh chị. Một mảnh đời cơ cực và bị chèn ép điển hình của người dân vùng Bưng Sáu Xã trước ngọn "sóng thần" mang tên " Toàn cầu hoá".

Nơi tôi đến không phải là rừng sâu nước độc, không phải hải đảo xa xôi, cái tôi cần tìm không phải là một di chỉ khảo cổ. Nơi đó chỉ cách nền văn minh ước chừng chưa đầy 500mét, vốn trước đây là khu dân cư lâu năm của phường Long Thạnh Mỹ, quận 9, tp Hồ Chí Minh. Đó là nơi gia đình anh Minh chị Trang sinh sống trước đây. Vậy mà không một ai có trách nhiệm của chính quyền quận 9 hoặc ban bồi thường giải phóng mặt bằng của quận 9 đến tận nơi xác minh một sự thực: gia đình anh Minh chị Trang đã từng có nhà cửa sinh sống trên chính mảnh đất do cha mẹ anh cho ở nơi đó. Do đó, tôi đến đây để tìm một bằng chứng một ngôi nhà đã từng hiện hữu.

Gia đình anh Minh chị Trang trước đây cư ngụ tại số 124 , tổ 4, ấp Mỹ Thành, p. Lon Thạnh Mỹ, quận 9, tp, Hồ Chí Minh. Anh tên là Nguyễn Hồng Minh, sinh 1968; chị tên là Dương Thanh Trúc, sinh 1971, mọi người thường gọi là chị Trang. Gia đình anh chị có 4 người con là: Con gái Nguyễn Thị Trúc Giàu (sinh 1992), con gái Nguyễn Hồng Ngọc(1993), con trai Nguyễn Minh Vũ (sinh 2002) và con gái Nguyễn Thị Trúc Vy (sinh 2003).



image033
Đây không phải là phế tích của một nền văn minh bị lãng quên, 5 năm trở về trước nơi đây là khu dân cư trù phú, nhà cửa xen lẫn các vườn cây trái sum xuê.




image034
Chính sách "tạm cư" sai lầm của chính quyền đã ép buộc người dân phải đập phá nhà cửa để giao đất cho chính quyền trước khi có dự án có nhu cầu sử dụng đất quá lâu. Đã 5 năm trôi qua kể từ khi người dân bị thu hồi đất, xóm làng đã thành rừng hoang mà chưa có dự án nào triển khai. Trong khi dó, nhiều người dân đã lỡ giao nhà giao đất cho nhà nước vẫn chưa được tái định cư, phải sống tạm bợ cơ cực trong các khu nhà trọ tồi tàn.



image043
Phải vượt qua nhiều khu rừng chồi hoang dại như thế này mới đến được nhà xưa của gia đình anh Minh chị Trang.



image035
Miếu thổ địa của làng xóm xưa kia nay bị bỏ hoang, đây là công trình kiến trúc duy nhất nguyên vẹn trong khu rừng âm u này hoang vắng này.



image049
Anh Minh phải vác một khúc cây khoảng 3 mét để làm cầu vượt qua những con mương đã bị cỏ dại che lấp.

image053
Vượt qua rặng cây này là đến nền nhà xưa của gia đình anh Minh chị Trang.



image066
Anh Minh chị Trang vạch cỏ phát lộ vết tích nhà cửa xưa kia của gia đình anh chị



image067
Dưới lùm cỏ dại này là nền nhà xưa của gia đình anh Minh chị Trang



image068


Gốc dừa trước cửa nhà anh Minh chị Trang vẫn còn đây



image069
Mảng tường gạch còn lại là bằng chứng hiển nhiên không thể chối cãi về một ngôi nhà đã từng tồn tại, nơi gia đình anh Minh chị Trang đã từng sinh sống.





image070
Phí xa xa là nhà máy Alied Tech. đang hoạt động cầm chừng trong Khu công nghệ cao



Nguyên năm 1978, gia đình cha mẹ anh Minh tình nguyện đi xây dựng kinh tế mới ở Suối dây 2, Tây Ninh. Đến năm 1980 vì đời sống ở khu kinh tế mới khó khăn nên gia đình anh Minh bỏ về địa phương sinh sống trên đất ông bà để lại. Không hiểu sao chính quyền địa phương không nhập hộ khẩu trở lại chogia đình anh mà chỉ cấp dạng tạm trú KT3, đây là một điều vô lý và bất nhẫn khi con người ta phải "tạm trú" trên chính mảnh đất ông bà.





Năm 1995, cha mẹ anh Minh cho anh một mảnh đất có diện tích là 551mét vuông, đất này có nguồn gốc là của ông bà nội để lại. Anh Minh lúc này đã lấy vợ là chị Trang, anh cất một ngôi nhà để sống cùng vợ và hai người con là Trúc Giàu và Hồng Ngọc.





Sau đó vì công việc sinh nhai, anh Minh vốn là thợ xây dựng, gia đình anh phải đi theo công trình xây dựng nên nhà cửa không ai trông coi. Năm 1999 , sau mùa mưa bão nhà anh Minh chị Trang bị sập. Vì hoàn cảnh khó khăn nên anh chị chưa có điều kiện xây dựng lại, phải ở nhờ nhà của cha mẹ anh Minh. Trong khi đang ở nhờ thì nhà nước quy hoạch khu công nghệ cao quận 9, nhà anh Minh chị Trang nằm trong quy hoạch.



Sẽ không có chuyện anh Minh chị Trang thưa kiện nếu nhà nước quy hoạch mà đền bù thỏa đáng, lo tái định cư đàng hoàng cho gia đình anh chị. Ngược lại khi áp giá bồi thường, ban bồi thường quận 9 không công nhận anh Minh chị Trang có nhà nên không bồi thường theo giá đất ở mà chỉ bồi thường theo giá đất nông nghiệp, gây thiệt hại nghiêm trọng cho gia đình anh chị. Bởi giá đền bù của nhà nước là 200.000 đồng một mét vuông đất vườn gò, 900.000đồng một mét vuông đất thổ cư. Tổng số tiền chính quyền bồi thường cho gia đình anh chị là khoảng 121 triệu đồng (giá thị trường mảnh đất nhà anh hiện tại khoảng hơn hai tỷ ). Hơn nữa, gia đình anh không được xem xét tái định cư. Đền bù như vậy không khác gì ném cho người dân ít tiền rồi đuổi họ ra khỏi mảnh đất họ đang sinh sống, bất chấp họ có đồng ý hay không.





Gia đình anh Minh chị Trang không chấp nhận cách giải quyết của chính quyền, anh đã làm đơn xin đại diện phường xác nhận gia định anh trước đây có nhà và đã được xác nhận là có nhà, vì nghèo nên chưa cất lại được . Bà con cư dân địa phương cũng xác nhận là có nhà đúng như anh khai với chính quyền. Thế nhưng ban bồi thường quận 9 vẫn bàng quang trước hoàn cảnh của anh Minh chị Trang.



dsc100589
Chính quyền phường xác nhận nhân khẩu của hộ anh Minh chị Trang



dsc100591
Những người dân địa phương xác nhận anh Minh chị Trang có cất nhà năm 1995



dsc100592
Những người dân địa phương xác nhận anh Minh chị Trang có cất nhà năm 1995



dsc100587
Chính quyền phường xác nhận anh Minh chị Trang có cất nhà ở từ năm 1995



dsc100588
Chính quyền phường xác nhận anh Minh chị Trang có cất nhà ở từ năm 1995



Anh chị đã khiếu kiện nhiều nơi nhưng chưa được các cấp chính quyền quan tâm giải quyết đoàng hoàng. Sau nhiều lần khiếu kiện có một cán bộ an ninh nhân dân đi theo bà con đã trực tiếp nghiên cứu hồ sơ của chị rồi đề xuất cho lãnh đạo thành phố. Có lẽ UBND Tp có chỉ đạo cho UBND quận 9 phải quan tâm đến trường hợp của anh chị nên ban bồi thường quận 9 nhượng bộ một bước là chấp nhận cho gia đình anh chị mua một căn hộ chung cư theo giá không kinh doanh ( khoảng từ 3 đến 5 triệu một mét vuông ). Nhưng hoàn cảnh của anh chị quá nghèo thì không thể nào mua nổi. Nhà nước bồi thường có khoảng 121 triệu mà phải mua một căn chung cư bèo nhất cũng hơn 300 triệu thì lấy tiền đâu mà mua? Có hay không chuyện trên bảo dưới không nghe của ban bồi thường quận 9? Lẽ ra chính quyền phải cấp lại cho gia đình anh chị một nền đất tái định cư thì anh chị có thể cất nhà để ở. Bởi gia đình anh có đến sáu nhân khẩu thì không thể nào nhồi nhét vào một căn hộ chung cư vài chục mét vuông.



b1b8-1
Cả gia đình anh Minh chị Trang trong một lần biểu tình đòi sự công bằng vào ngày 22/11/2007, hai em nhỏ là hai người con nhỏ nhất của anh chị (Minh Vũ và Trúc Vy). Phía sau chị Trang có tấm bảng giấy ghi nội dung tố cáo của gia đình anh chị, trên đường đi đến UBND quận 9 nhiều lần bị nhân viên civil nhào vô giựt xé, rách te tua như hình dưới.



hã¬nh ảnh002
Tấm bảng bằng giấy ghi nội dung tố cáo của gia đình anh Minh chị Trang bị giựt rách tơi tả khi ra đến trước UBND quận 9, ngày 22/11/2007, hai đứa con nhỏ của anh Minh chị Trang đang giữ. Khoảng chừng 10 phút sau khi tấm hình này được chụp thì một nhân viên civil giựt lấy chạy mất.

minh 1
Anh Minh cùng bà con khiếu kiện khu CNC quận 9 trước cổng UBTW MTTQ Việt Nam tại 46 Tràng Thi , Ba Đình , Hà Nội vào tháng 7/2007.



trang 1
Chị Trang cùng bà con khiếu kiện khu CNc quận 9 tại toà án tp HCM vào tháng 3 năm 2007





Trong khi đó thì từ năm 2003 đến nay gia đình anh Minh chị Trang phải thuê phòng trọ để ở với giá 300 ngàn đồng một tháng, một khoản tiền không nhỏ đối với gia đình anh. Đặt biệt là trong hoàn cảnh phải chạy vạy khiếu kiện khắp nơi, công ăn việc làm thất thường.

image079


Gia đình anh Minh chị Trang trong nhà trọ, chiếc tivi thập niên 1980 là tài sản có giá trị nhất của anh chị. Hai cháu lớn đi làm chưa về dù đã 7 giờ tối.





image081


Ngoài một ít vật dụng cũ kỹ này, gia đình anh Minh chị Trang không còn thứ gì khác





Anh Minh chị Trang cho biết nếu nhà nước không giải quyết thoả đáng cho gia đình anh chị thì tháng sau anh chị sẽ về lại đất cũ dững một ngôi nhà lá để ở và sinh sống qua ngày.

Theo như tôi nghĩ, việc quy hoạch xây dựng để phát triển kinh tế là điều cần thiết. Nhưng chính quyền không thể nhân danh lợi ích quốc gia mà làm tổn hại đến lợi ích của bất kỳ một người dân nào. Trong trường hợp gia đình anh Minh chị Trang, nếu không bị dính quy họach của nhà nước thì với 551 mét vuông đất gia đình anh chị có thể phân ra thành 3 nền nhà, bán một nền vẫn cất được hai căn nhà khang trang. Giá đất cách chổ đất nhà anh chị khoảng 500 mét hiện nay là 4 triệu đồng một mét vuông ( đất nhà anh chị nằm trên ranh giữa khu công nghệ cao và khu dân cư hiện hữu không bị quy hoạch).

Tôi hy vọng sau khi có đủ thông tin chứng minh sự tồn tại của nhà cửa anh Minh chị Trang thì ban bồi thường quận 9 không có lý do gì mà không giải quyết nền tái định cư và bồi thường hợp lý cho anh chị.

(Bài viết của Bùi Trúc Linh. Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ thông tin, hình ảnh của gia đình anh Minh chị Trang và bà con khu cnc quận 9, tp HCM. Đây là bài viết vì cộng đồng, không lợi nhuận. Rất hoan nghênh sự giúp đỡ đưa tin lại rộng rãi của các phương tiện thông tin đại chúng và cộng đồng bloggers.)

Suy nghĩ về sức mạnh của truyền thông độc lập trong một chế độ độc tài




Mọi chế độ độc tài toàn trị trên thế giới suy cho cùng đều có những đặc điểm chung giống nhau.

Vũ khí của một chế độ độc tài là gì? Không chỉ là sức mạnh của cả một thể chế chính trị từ trên xuống dưới; không chỉ là sức mạnh của quân đội, cảnh sát, an ninh…được vũ trang đến tận răng đi kèm với tòa án, luật pháp...và số đông đội ngũ tay sai được giáo dục, đào tạo trong bao nhiêu năm…; không chỉ là sức mạnh của cả một hệ thống tuyên truyền qua phương tiện truyền thông và giáo dục…Vũ khí của một chế độ độc tài đó là: sự sợ hãi, sự bí mật và sự dối trá.

Một chế độ độc tài còn tồn tại được khi nào nhân dân còn sợ hãi cái bộ máy vận hành chế độ đó và chưa ý thức được sức mạnh của mình.

Một chế độ độc tài còn tồn tại được khi nào mọi sự thật của lịch sử và của chính quyền đó còn bị bưng bít, hay nói khác đi khi sự bí mật và sự dối trá còn bao trùm lên toàn xã hội.

Trong một chế độ độc tài, khi mà từ bộ máy Nhà Nước cho đến quân đội, truyền thông nằm hoàn toàn trong tay chính quyền, một trong những con đường đấu tranh khả thi nhất và hữu hiệu nhất để thức tỉnh mọi người, giành lại quyền tự do dân chủ cho nhân dân và đem lại một thể chế chính trị tốt đẹp hơn cho đất nước có lẽ nên bắt đầu từ truyền thông. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi cuộc cách mạng công nghệ thông tin trên thế giới đã đem lại những phương tiện giao tiếp, truyền thông nhanh lẹ và tuyệt vời như internet chẳng hạn.

Khi Liên Xô sụp đổ, ở Liên Xô và hầu hết trên thế giới, internet chưa phát triển, chỉ mới nhờ vào máy Fax mà người dân Liên Xô đã biết đựơc rằng những gì đang xảy ra trên thế giới thì khác xa với những gì đang xảy ra trên đất nước mình và người dân mình đã bị che mắt như thế nào. Nhiều bí mật trong lịch sử, những mặt trái của chính quyền Xô Viết cũng như con người thật của những vị lãnh tụ được sùng bái như Xtalin…được tiết lộ, đã làm rúng động bao người.

So với thời điểm 1991 ấy, internet hiện nay đã phát triển vượt bực và cùng với nó, thế giới với hàng loạt thông tin trái ngược, đa chiều… đã mở ra trước mắt những người dân sống trong những chế độ độc tài kìm hãm, che giấu thông tin. Internet đã khiến cho những nhà nước độc tài lúng túng, bối rối và bất lực, không thể nào ngăn chặn hết mọi luồng thông tin, mọi sự giao tiếp của người dân với nhau, với thế giới bên ngoài và với SỰ THẬT.

Có thể ở những quốc gia nào khác, những người đấu tranh thường sử dụng con đường bạo lực vũ trang-thậm chí đánh bom tự sát. Nhưng ở một vài quốc gia, điều đó không khả thi, không phù hợp và chắc chắn không được dư luận đông đảo nhân dân đồng tình. Không có lực lượng, không vũ khí, không có bất cứ một thứ gì trong tay, những con người đấu tranh cho tự do dân chủ trong các quốc gia như vậy ngày nay đã tìm thấy một trong những con đường phù hợp nhất đó là: con đường ôn hòa, bất bạo động và sử dụng truyền thông để truyền bá tư tưởng, vạch mặt chính quyền và thức tỉnh nhân dân. Để đấu tranh lại với hệ thống truyền thông chính thống-công cụ thông tin, tuyên truyền của một chính quyền-bao gồm hàng trăm tờ báo, hàng chục đài phát thanh, đài truyền hình lớn nhỏ…những con người yêu dân chủ, yêu tự do đã tìm đến máy tính, internet, điện thoại di động… (Tất nhiên đó chỉ là bước đi ban đầu. Chỉ bằng truyền thông thì không thể làm cho một chế độ thay đổi, nhất là với những chế độ bảo thủ và ngoan cố đến cùng, luôn đặt quyền lợi của một đảng phái lên trên quyền lợi của dân tộc, của đất nước). Nhưng hành động của con người phải bắt đầu từ nhận thức. Khi người dân đã thức tỉnh, sức mạnh của họ sẽ vô cùng lớn.

Dù sao, không nên lạc quan để thấy rõ rằng đó là một con đường chắc chắn sẽ rất dài, rất lâu…

Nhưng như hiệu ứng domino, một quân cờ đổ sẽ kéo theo hàng loạt quân cờ khác đổ…

Tiễn đưa người Chiến sĩ Dân chủ Hoàng Minh Chính

Thuận Thiên
(Ghi nhanh về tang lễ cụ Hoàng Minh Chính)
Hai bức trướng của gia đình các cụ Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang và nhóm dân chủ Đà Lạt

Trời Hà Nội như thấu tình người thân, bạn bè đồng chí và những người hâm mộ cụ Hoàng Minh Chính, đã ấm lên ngay từ đầu buổi sáng 16 tháng 2 sau hơn một tháng liên tiếp rét đậm rét hại chưa từng có trong suốt một thế kỷ.

Vòng hoa của talawas
Đoàn cộng tác viên talawas
Đoàn Sứ quán Hoa Kỳ
Vòng hoa của Sở Công an Hà Nội

Chưa đến 9 giờ sáng, tức là 45 phút trước giờ bắt đầu lễ viếng mà lối vào nhà tang lễ Bệnh viện Thanh Nhàn và khoảng sân rộng trước nhà tang lễ đã có khá đông người với các vòng hoa chờ vào viếng cụ. Đảo qua, thấy các vòng hoa của gia đình mục sư Nguyễn Hồng Quang, gia đình luật sư Lê Thị Công Nhân, gia đình luật sư Nguyễn Văn Đài, gia đình ông Đỗ Nam Hải, gia đình ông Vũ Cao Quận, gia đình một số đội viên cảm tử trong trận đánh sân bay Gia Lâm 60 năm trước (bản thân các vị này đã không thể có mặt), Đại sứ quán Hoa Kỳ, và… Sở Công an Hà Nội… Mấy nhà báo quốc tế lỉnh kỉnh máy ảnh, máy quay phim đã chực sẵn.

Trước quang cảnh ấy, mặc dù những phản cảm đầu tiên khi thấy lượng “cảnh sát giao thông” đông hơn cùng với xe cảnh sát chạy đi chạy lại ở đầu ngã ba phố Thanh Nhàn, khi tất cả các máy điện thoại di động trong vùng gần nhà tang lễ đều được thông báo “failed service”, làm cho không khí có gì đó giông giống với các buổi biểu tình trước cơ quan ngoại giao Trung Quốc hồi tháng 12/2007, nhưng khi bước vào khu nhà tang lễ, mọi người đều có dự cảm mọi việc sẽ diễn ra trong chiều hướng tốt đẹp.

Nguyễn Tiến Trung và các thanh niên dân chủ
Ông Vi Đức Hối từ Lạng Sơn đến dự tang lễ

Các vòng hoa, các bức trướng tiếp tục tới kìn kìn nhưng đều không thoát khỏi con mắt kiểm tra sắc sảo của lực lượng bảo vệ nhà tang lễ (chắc đã được bổ sung đột xuất khá nhiều). Từ 9 giờ 30 đến 11 giờ 30 kết thúc lễ viếng theo đúng chương trình, có đến 200 vòng hoa, trướng, với khoảng 400 người tới tiễn đưa hương hồn lão chiến sĩ cách mạng. Thử điểm tên một số người quen biết: Trong số các nhà đấu tranh dân chủ có TS Nguyễn Thanh Giang, ông Lê Hồng Hà – nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an (đi cùng là phu nhân, GS Lê Thi – nguyên Viện trưởng Viện Triết học), nhà báo Nguyễn Vũ Bình – nguyên biên tập viên Tạp chí Cộng sản, nhà văn Hoàng Tiến, anh Nguyễn Tiến Trung - thủ lĩnh Tập hợp Thanh niên Dân chủ (từ TPHCM), ông Vi Đức Hối – nguyên Giám đốc trường Đảng huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn)... Giới cầm bút có: GS Huệ Chi, nhà văn Sơn Tùng, nhà thơ Dương Tường, GS Hoàng Ngọc Hiến, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai – nguyên Trưởng ban Dân vận Trung ương, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, nhà thơ Hoàng Hưng, nhà báo Lê Phú Khải (từ TPHCM)… Giới khoa học có Viện sĩ Vật lý Đào Vọng Đức, một số cán bộ giảng dạy trường Đại học Bách khoa Hà Nội, một số nhà nghiên cứu trước đây ở các Viện Triết học, Sử học, và Uỷ ban Khoa học Xã hội. Đoàn tăng sĩ do Đại đức Thích Không Tánh từ TPHCM cuối cùng đã thoát khỏi sự ngăn trở ở Huế để kịp có mặt viếng và làm lễ cầu siêu cho Phật tử mới quy y Chân Tâm Hoàng Minh Chính (không thấy đoàn đem theo bức trướng viếng của cụ Thích Quảng Độ như thông tin trước đó trên mạng). Có một số gương mặt có thể cho thấy họ là người Việt ở nước ngoài về đưa tang cụ.

Nội dung một số bức trướng ca ngợi người quá cố với những lời tốt đẹp nhất và thực xứng đáng với cụ. Cụ Vũ Đình Hoè (nguyên Bộ trưởng Tư pháp thời kháng chiến chống Pháp, nay đã gần bách tuế, hiện sống tại TPHCM) giao cho con trai là GS Vũ Thế Khôi đưa đến bức trướng mang năm chữ “Nhân, Trí, Dũng Vẹn Toàn”. Bức trướng của hai gia đình cụ Vũ Đình Huỳnh và Đặng Kim Giang mang tám chữ vàng: “Minh tâm minh đức, Chính nghĩa chính danh”. Bức trướng của nhóm dân chủ Đà Lạt (Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh) mang câu đối “Chính khí hựu chính danh đích thị nam thiên hào kiệt/ Minh tâm như minh nguyệt hà cầu bắc đẩu bội tinh”.

Đoàn Trung tâm Minh triết Việt: Nguyễn Khắc Mai, Lê Phú Khải, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Hưng…

Những lời ngợi ca công khai như thế còn vang lên ngay trong lễ đường. GS Nguyễn Huệ Chi dẫn đầu đoàn viếng của Trung tâm Minh triết Việt và một số cây bút độc lập, đã thống thiết nói lớn trước linh cữu cụ: “Đoàn chúng tôi xin bày tỏ niềm cảm phục sâu sắc và lòng tiếc thương vô hạn trước tấm gương bất khuất kiên cường, tinh thần dũng cảm và quan điểm dân chủ sáng ngời của GS Hoàng Minh Chính. Chúng tôi xin lạy ông ba lạy để tiễn đưa ông về nơi chín suối.” Và cả đoàn đã sụp lạy đầy thành kính theo đúng nghi thức cổ truyền phương Đông.

Sự tôn kính với người quá cố thể hiện tập trung nhất trong
điếu văn của Luật sư Trần Lâm. Phong độ trầm tĩnh, giọng nghiêm trang và hùng hồn, luật gia lão thành, cựu thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao, thành viên BBT tạp chí mạng Tổ Quốc - một trong những tờ báo độc lập đầu tiên ra đời trong nước, người “thầy cãi” tài tình trong các vụ án chính trị gần đây, đã truyền được hầu hết tình ý sâu sa của những người ngưỡng mộ cụ Hoàng Minh Chính có mặt hay vắng mặt trong đám tang (bài đã được đưa lên mạng ngay từ ngày 15/2/2008).

Liên tưởng đến tang lễ đầy sự cố của Tướng Trần Độ mấy năm trước đây do Văn phòng Quốc hội tổ chức với lời điếu tai tiếng của ông Chánh văn phòng, người ta thấy rõ rằng những sự tốt đẹp trên đối với hương hồn cụ Hoàng chắc không thể có được nếu tang lễ do một cơ quan nhà nước như Viện Triết học chẳng hạn, đứng ra tổ chức. (Viện này chỉ có mặt với tư cách một đoàn viếng thông thường.) Gia đình người quá cố đã không uổng công tranh đấu cho quyền được tổ chức tang lễ của người thân trong tư cách một người dân thường, tại một nhà tang lễ của dân thường. Lập trường rõ rệt ấy cũng thể hiện trong lời tiễn biệt cha của trưởng nữ Trần Thị Thanh Hà, xúc động nhưng vững vàng niềm tự hào của một gia đình cách mạng đã gắn bó với người chồng, người cha thương yêu “suốt đời đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”, chia sẻ ước nguyện của ông về một “tương lai tươi sáng cho đất nước nhất định sẽ trở thành hiện thực, vì mọi người Việt Nam đều muốn phấn đấu cho nước Việt Nam dân chủ, tự do, hạnh phúc, cho dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu cùng nhân loại.” Đáng tiếc là những lời nhắn gửi cuối cùng của cụ Hoàng Minh Chính trước lúc ra đi phát qua cassette đã không nghe được rõ, tuy nhiên ai cũng cảm nhận được qua giọng nói nặng nhọc và méo tiếng ấy một tâm huyết vì dân tộc cho đến hơi thở cuối cùng.

Đại đức Thích Không Tánh khởi lễ động quan

Đúng 11 giờ 45 phút, lễ động quan cụ Hoàng Minh Chính khởi sự trong nghi thức Phật giáo do Đại đức Thích Không Tánh chủ trì. Linh cữu cụ được đưa đi điện táng tại Nhà Hoá thân Hoàn vũ nghĩa trang Văn Điển.

Anh Lê Thanh Tùng giữa các nhà báo và nhân viên bảo vệ

Có thể nói đám tang lão Chiến sĩ Dân chủ Hoàng Minh Chính đã diễn ra trong không khí thật trang trọng, tôn nghiêm và xúc động chân thành. Sự cố duy nhất trong buổi lễ (không nói đến việc cản trở một số nhà dân chủ từ Hải Phòng, TPHCM tới dự lễ, một động thái khó hiểu và không đáng có) là việc một thanh niên tên Lê Thanh Tùng bị ngăn cản đem vòng hoa của Radio Sidney Australia Radio Chân trời mới vào viếng (cụ thể là tước bỏ tấm băng đen mang tên các cơ quan này) đã trở thành tiêu điểm cho các nhà báo nước ngoài xúm lại phỏng vấn, và sau đó sự can thiệp thô thiển của lực luợng bảo vệ đã gây ra cuộc tụ tập ngoài sân ngay trước giờ động quan, bị nhiều người phản đối.

Những người dự tang lễ cụ Hoàng Minh Chính ra về trong cảm tưởng vui mừng vì sự mỹ mãn của nó. Trên giường bệnh tại Bệnh viện Hữu Nghị, sau khi nghe lại qua băng ghi âm diễn biến của tang lễ, nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang, một trong số hiếm hoi chiến hữu cuối cùng còn lại của cụ Hoàng trong vụ án “Xét lại” hơn 50 trước, đã xúc động phát biểu: “Thế là cuộc chiến đấu của bọn mình suốt bao nhiêu năm, đến giờ đã chứng tỏ là không vô ích.”

(Ảnh trong bài của tác giả.)

© 2008 talawas